Nguồn gốc Hội_Quốc_Liên

Bối cảnh

Công ước Genève 1864 là một trong những công thức hóa sớm nhất về luật pháp quốc tế.

Khái niệm về một cộng đồng hòa bình gồm các quốc gia được đề xuất ngay từ năm 1795, khi Hướng đến hoà bình vĩnh cửu của Immanuel Kant[3] phác thảo tư tưởng về một liên minh của các quốc gia nhằm kiểm soát xung đột và xúc tiến hòa bình giữa các chính quyền.[4] Kant lập luận về việc thành lập một cộng đồng thế giới hòa bình, không phải là theo tinh thần về một chính phủ toàn cầu, song hy vọng rằng mỗi chính quyền sẽ tuyên bố họ là một chính quyền tự do đại diện cho các công dân của mình và hoan nghênh du khách ngoại quốc những người đồng chí, nhờ đó xúc tiến xã hội hòa bình trên toàn cầu.[5] Hợp tác quốc tế nhằm xúc tiến an ninh tập thể bắt nguồn từ trật tự tại châu Âu phát triển sau Các cuộc chiến tranh của Napoléon trong thế kỷ XIX trong một nỗ lực nhằm duy trì hiện trạng giữa những chính quyền châu Âu và vì thế phải tránh chiến tranh.[6][7] Luật pháp quốc tế cũng phát triển trong giai đoạn này, công ước Genève đầu tiên thiết lập các pháp luật về cách đối xử với cứu trợ nhân đạo trong thời chiến, và Các công ước Den Haag 1899 và 1907 điều chỉnh các quy tắc chiến tranh và giải quyết hòa bình những tranh chấp quốc tế.[8][9]

Tiền thân của Hội Quốc Liên là Liên minh liên nghị viện do những nhà hoạt động hòa bình là William Randal CremerFrédéric Passy thành lập vào năm 1889. Tổ chức này có phạm vi quốc tế, với một phần ba số thành viên trong các nghị viện (tại 24 quốc gia có nghị viện) là thành viên của Liên minh liên nghị viện vào năm 1914. Mục đích của tổ chức là khuyến khích các chính phủ giải quyết những tranh chấp quốc tế theo các phương thức hòa bình. Những hội nghị thường niên được tổ chức nhằm giúp các chính phủ cải tiến quá trình trọng tài quốc tế. Cấu trúc của tổ chức gồm có một hội chính vụ do một chủ tịch đứng đầu, cấu trúc này sau đó được phản ánh trong cấu trúc của Hội Quốc Liên.[10]

Những năm đầu thế kỷ XX, hai khối quyền lực nổi lên từ các liên minh giữa các cường quốc châu Âu. Sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ vào năm 1914, toàn bộ các cường quốc lớn tại châu Âu đều bị cuốn vào xung đột. Đây là chiến tranh lớn đầu tiên tại châu Âu giữa những quốc gia công nghiệp hóa. Chiến tranh công nghiệp hóa dẫn đến hậu quả chưa từng thấy: tám triệu rưỡi quân nhân thiệt mạng, và ước tính có 21 triệu người bị thương, cùng với khoảng 10 triệu thường dân thiệt mạng.[11][12]

Khi giao tranh kết thúc vào tháng 11 năm 1918, chiến tranh đã có một tác động sâu sắc, ảnh hưởng đến các hệ thống xã hội, chính trị và kinh tế của châu Âu và gây tổn thương về tâm lý và thân thể.[13] Cảm tình phản chiến nổi lên khắp thế giới; Chiến tranh thế giới thứ nhất được mô tả là "chiến tranh để kết thúc tất cả chiến tranh",[14][15] và nguyên nhân chiến tranh được điều tra một cách sôi nổi. Các nguyên nhân được xác định bao gồm chạy đua vũ trang, liên minh, ngoại giao bí mật, và quyền tự do của các quốc gia có chủ quyền được tham gia chiến tranh vì lợi ích riêng của họ. Một biện pháp khắc phục được đề xuất bao gồm thành lập một tổ chức quốc tế có mục đích ngăn ngừa chiến tranh trong tương lai thông qua giải trừ quân bị, ngoại giao công khai, hợp tác quốc tế, hạn chế quyền tiến hành chiến tranh, và trừng phạt khiến cho chiến tranh không còn sức hấp dẫn.[16]

Đề xuất ban đầu

Tử tước James Bryce là một trong những người chủ trương đầu tiên về một liên hiệp của các quốc gia.

Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bắt đầu, các kế hoạch đầu tiên về tổ chức quốc tế nhằm ngăn ngừa chiến tranh trong tương lai bắt đầu giành được sự ủng hộ đáng kể từ công chúng, đặc biệt là tại Anh Quốc và Hoa Kỳ. Nhà khoa học chính trị người Anh Goldsworthy Lowes Dickinson tạo ra thuật ngữ "Hội Quốc Liên" vào năm 1914 và phác thảo một kế hoạch cho tổ chức này. Cùng với Tử tước James Bryce, ông giữ một vai trò hàng đầu trong việc hình thành nhóm các nhà hòa bình quốc tế mang tên nhóm Bryce, sau trở thành "League of Nations Union".[17] Nhóm này dần có ảnh hưởng lớn hơn trong công chúng và là một nhóm có ảnh hưởng trong Đảng Tự do đang cầm quyền tại Anh Quốc khi đó. Trong cuốn sách nhỏ After the War vào năm 1915 của Dickinson, ông viết về "liên minh hòa bình" của mình về cơ bản là một tổ chức trọng tài và hòa giải. ‘Các đề xuất’ của nhóm Bryce được lưu hành rộng rãi ở cả Anh lẫn Mỹ, tại đây họ có ảnh hưởng sâu sắc đến phong trào quốc tế mới ra đời.[18]

Năm 1915, một nhóm gồm các cá nhân cúng chí hướng thiết lập một tổ chức tương tự tại Hoa Kỳ, trong đó có William Howard Taft. Tổ chức này được gọi là League to Enforce Peace và về cơ bản dựa theo những đề xuất của nhóm Bryce.[19] Tổ chức chủ trương sử dụng trọng tài trong giải quyết xung đột và áp đặt chế tài với những quốc gia xâm lược. Tuy nhiên, không tổ chức ban đầu nào hình dung về một cơ quan chức năng liên tục; ngoại trừ Hội Fabian tại Anh, họ duy trì một giải pháp pháp lý rằng sẽ hạn chế cơ quan quốc tế trong một tòa án tư pháp. Thành viên của Fabian là những người đầu tiên tranh luận về một "hội chính vụ" gồm các chính quyền, nhất thiết phải có các cường quốc, họ sẽ phân xử các vấn đề thế giới, và thiết lập một văn phòng thư ký thường trực nhằm tăng cường hợp tác quốc tế trên một loạt hoạt động.[20]

Bộ trưởng Ngoại giao Anh Quốc Arthur Balfour được ủy quyền báo cáo chính thức đầu tiên về vấn đề vào đầu năm 1918, theo sáng kiến của Tử tước Robert Cecil. Ủy ban của Anh Quốc cuối cùng được chỉ định vào tháng 2 năm 1918, dưới quyền lãnh đạo của Walter Phillimore (và được gọi là Ủy ban Phillimore), và gồm có cả Eyre Crowe, William Tyrrell, và Cecil Hurst.[17] Những khuyến nghị của Ủy ban Phillimore gồm có thiết lập một "Hội nghị các quốc gia đồng minh" sẽ phân xử tranh chấp và áp đặt chế tài lên các quốc gia vi phạm. Chính phủ Anh Quốc tán thành các đề xuất, và phần lớn những thành quả của ủy ban sau đó được đưa vào trong Công ước của Hội Quốc Liên.[21]

Người Pháp cũng soạn thảo một đề xuất có ảnh hưởng sâu rộng hơn nhiều trong tháng 6 năm đó, họ chủ trương tiến hành các cuộc họp thường niên của một hội chính vụ nhằm giải quyết toàn bộ các tranh chấp, cũng như một "quân đội quốc tế" nhằm thi hành các quyết định của hội chính vụ.[21]

Tổng thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson chỉ thị cho Edward House soạn thảo một kế hoạch của Hoa Kỳ mà theo đó phản ánh quan điểm tư tưởng của riêng Woodrow Wilson, cũng như công tác của Ủy ban Phillimore. Thành quả của Edward House, và bản phác thảo đầu tiên của Wilson được đề xuất là kết thúc hành vi "vô đạo đức" ở cấp chính quyền, gồm các hình thức gián điệp và không thành thực. Phương pháp cưỡng bách chống lại các quốc gia ngoan cố gồm các biện pháp khắc nghiệt, như phong tỏa và đóng cửa biên giới, và "sử dụng bất kỳ lực lượng nào cần thiết"[21]

Hai khởi thảo giả và kiến trúc sư chủ yếu của Công ước Hội Quốc Liên[22] là Tử tước Robert CecilJan Smuts. Các đề xuất của Jan Smuts gồm có thiết lập một Hội đồng gồm các cường quốc là các thành viên thường trực, và các thành viên không thường trực được lựa chọn từ những quốc gia nhỏ. Ông cũng đề xuất thiết lập một hệ thống ủy trị cho các thuộc địa chiếm từ trong chiến tranh. Robert Cecil tập trung vào phương diện hành chính, và đề xuất các cuộc họp thường niên của Hội chính vụ và các cuộc họp bốn năm một lần của Đại hội đồng toàn bộ thành viên. Ông cũng lý luận về một ban thư ký lớn và thường trực để thực hiện những phận sự hành chính của Liên minh.[21]

Thành lập

Tại Hội nghị hòa bình Paris năm 1919, Woodrow Wilson, Robert Cecil, Jan Smuts đều đưa ra những đề xuất dự thảo của họ. Sau những đàm phán kéo dài giữa các phái đoàn, dự thảo của Hurst-Miller cuối cùng được chọn làm cơ sở cho Công ước.[23] Sau các đàm phán và dàn xếp hơn nữa, các phái đoàn cuối cùng tán thành đề xuất thiết lập Hội Quốc Liên vào ngày 25 tháng 1 năm 1919.[24] Công ước Hội Quốc Liên cuối cùng do một ủy ban đặc biệt soạn thảo, và Hội Quốc Liên được thành lập theo Hòa ước Versailles. Ngày 28 tháng 6 năm 1919,[25][26] 44 quốc gia ký kết Công ước.

Hội Quốc Liên thành lập một Đại hội đồng đại diện cho toàn bộ các thành viên, một Hội đồng hành pháp gồm các thành viên giới hạn với quyền lực lớn, và một ban thư ký thường trực. Các quốc gia thành viên được mong đợi "tôn trọng và bảo hộ khi chống lại xâm lược từ bên ngoài" đến toàn vẹn lãnh thổ của các thành viên khác, và giải trừ quân bị "đến mức thấp nhất phù hợp với an ninh nội địa." Toàn bộ các quốc gia được yêu cầu trình những khiếu nại để phân xử hoặc điều tra tư pháp trước khi tiến đến chiến tranh.[17] Hội đồng hành pháp sẽ thành lập một Tòa thường trực tư pháp quốc tế nhằm xét xử các tranh chấp.

Bất chấp các nỗ lực của Woodrow Wilson nhằm thiết lập và xúc tiến Hội Quốc Liên, mà nhờ đó ông được trao giải Nobel Hòa bình vào tháng 10 năm 1919,[27] Hoa Kỳ không tham dự trong tổ chức này. Phe đối lập trong Thượng nghị viện giành được đảm bảo rằng Hoa Kỳ sẽ không phê chuẩn công ước.[28][29] Hội nghị hội chính vụ đầu tiên của Hội Quốc Liên được tổ chức tại Paris vào ngày 16 tháng 1 năm 1920, sáu ngày sau khi Hội nghị Versailles và Công ước Hội Quốc Liên có hiệu lực.[30] Ngày 1 tháng 11 năm 1920, trụ sở của Hội Quốc Liên được chuyển từ Luân Đôn đến Genève, tại đây kỳ họp Đại hội đồng đầu tiên được tổ chức vào ngày 15 tháng 11 năm 1920.[31][32]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Hội_Quốc_Liên http://www.nla.gov.au/research-guides/league-of-na... http://biblio-archive.unog.ch/detail.aspx?ID=245 http://www.unog.ch/80256EDD006B8954/(httpAssets)/3... http://www.unog.ch/80256EE60057D930/(httpPages)/02... http://www.unog.ch/80256EE60057D930/(httpPages)/03... http://www.unog.ch/80256EE60057D930/(httpPages)/12... http://www.unog.ch/80256EE60057D930/(httpPages)/77... http://www.unog.ch/80256EE60057D930/(httpPages)/84... http://www.unog.ch/80256EE60057D930/(httpPages)/B5... http://www.amazon.com/Historical-Dictionaries-Inte...